I. Giới thiệu
Ớt
cay được xem là cây gia vị nên có mức tiêu thụ ít. Gần đây ớt trở thành một mặt
hàng có giá trị kinh tế vì ớt không chỉ là gia vị tươi mà còn được sử dụng trong
công nghiệp chế biến thực phẩm và dược liệu để bào chế các thuốc trị ngoại khoa
như phong thấp, nhức mỏi, cảm lạnh hay nội khoa như thương hàn, cảm phổi, thiên
thời... nhờ tính chất capsaicine chứa trong trái. Nhờ vậy nhu cầu và diện tích
ớt ở nhiều nước có chiều hướng gia tăng.
Ở Việt Nam việc canh tác ớt chưa
được quan tâm, phần lớn canh tác lẻ tẻ, không đầu tư thâm canh cao nên năng suất
thấp, thường chỉ đạt 800 - 1.000kg ớt tươi /1.000m2.
II. Đặc tính
sinh học- Rễ: Ớt có rễ trụ, nhưng khi cấy rễ phân nhánh mạnh và cây
phát triển thành rễ chùm, phân bố trong vùng đất cày là chính.
- Thân:
khi cây già phần gốc thân chính hóa gỗ, dọc theo chiều dài thân có 4-5 cạnh.
Thân có lông hoặc không lông, cây cao 35 - 65 cm, có giống cao 125 - 135 cm. Ớt
phân tán mạnh, kích thước tán thay đổi tùy theo điều kiện canh tác và
giống.
- Lá: Mọc đơn, đôi khi mọc chùm thành hình hoa thị, lá nguyên có
hình trứng đến bầu dục, phiến lá nhọn ở đầu, lá màu xanh nhạt hoặc đậm, có lông
hoặc không lông.
- Hoa: Lưỡng phái, mọc đơn hoặc thành chùm 2 - 3 hoa.
Hoa nhỏ, dài, hoa màu xanh có hình chén, lá đài nhỏ, hẹp và nhọn. Tràng hoa có 6
- 7 cánh màu trắng hoặc tím. Số nhị đực bằng số cánh hoa và mọc quanh nhụy cái.
Phần trong cánh hoa có lỗ tiết mật.
Hoa ớt có thể tự thụ phấn hay thụ phấn
chéo do côn trùng vì ớt thuộc loại tiền thư, thụ phấn chéo có ý nghĩa lớn ở ớt
cay, tỷ lệ thụ phấn chéo từ 10 - 40 % tùy giống, do đó cần chú ý trong công tác
để giống và giữ giống thuần.
- Trái: Trái có 2 - 4 thùy, dạng trái rất
thay đổi từ hình cầu đến hình nón, bề mặt trái có thể phẳng, gợn sóng, có khía
hay nhẵn; trái khi chín có màu đỏ đen vàng; trái không cay hay rất cay.
+
Chiều dài và dạng trái đóng vai trò quan trọng trong việc chọn giống ớt xuất
khẩu dưới dạng quả khô. Ớt quả khô nguyên trái phải dài hơn 9 cm và khi khô
không rời cuống. Việc chế biến ớt bột không đòi hỏi tiêu chuẩn về kích thước và
dạng trái nhưng yêu cầu về màu sắc, độ cay và tỷ lệ tươi/khô khi phơi; ớt trái
to ở nước ta có tỷ lệ tươi/khô là 6,5:1 trong khi ớt trái nhỏ có tỷ lệ này là
8:1. Trái chưá nhiều hạt tròn dẹp, nhỏ có màu nâu sáng,
+ Ớt là cây chịu
nhiệt, nhiệt độ thích hợp cho tăng trưởng là 18 - 30 độ C. Nhiệt độ cao trên 32
độ C và thấp dưới 15 độ C. Cây tăng trưởng kém và hoa dễ rụng. Ớt là cây không
quang cảm, tuy nhiên trong điều kiện ngày ngắn các giống ớt cay phát triển tốt
và cho năng suất cao. Ớt chịu đựng được điều kiện che rợp đến 45%, nhưng che rợp
nhiều hơn ớt chậm trổ hoa và rụng nụ.
III. Phân loại
ớtHiện nay nhiều nơi vẫn canh tác giống địa phương là chính. Giống
trồng phổ biến ở đồng bằng sông Cửu Long có giống Sừng Trâu, Chỉ Thiên, ớt Búng,
ớt Hiểm, ở miền Trung có giống ớt Sừng Bò, Chìa Vôi. Ngoài ra Viện Nghiên Cứu NN
Hà Nội công bố bộ sưu tập với 117 giống nội địa (1987), điều này chứng minh
nguồn giống ớt phong phú, đa dạng chưa được biết đến ở nước ta. Tuy nhiên giống
địa phương bị lai tạp nên thoái hóa, quần thể không đồng đều và cho năng suất
kém, trong khi các giống F1 có khả năng cho năng suất vượt trội trong điều kiện
thâm canh cao nên bắt đầu được ưa chuộng và đang thay thế dần các giống địa
phương.
1. Giống lai F1- Giống Chili (công ty Trang
Nông phân phối): Trái to, dài 12 - 13 cm, đường kính trái 1,2 - 1,4cm; trọng
lượng trung bình trái 15 - 16 gram, dạng trái chỉ địa, trái chín đỏ, cứng, cay
trung bình, phù hợp thị hiếu người tiêu dùng. Cây cao trung bình 75 - 85 cm,
sinh trưởng mạnh, chống chịu bệnh tốt và cho năng suất cao.
- Giống số 20
(công ty Giống Miền Nam phân phối): sinh trưởng mạnh, phân tán lớn, ra nhiều
hoa, dễ đậu trái, bắt đầu cho thu hoạch 85 - 90 ngày sau khi cấy, cho thu hoạch
dài ngày và chống chịu tốt bệnh virus. Trái ớt chỉ địa dài 14 - 16 cm, thẳng, ít
cay, trái cứng nên giữ được lâu sau thu hoạch, năng suất 2 - 3
tấn/1.000m2.
- Giống TN 16 (công ty Trang Nông phân phối): Cho thu hoạch
70 - 75 ngày sau khi gieo, trái chỉ thiên khi chín đỏ tươi, rất cay, dài 4 - 5
cm, đường kính 0,5 - 0,6cm, trọng lượng trung bình 3 - 4g/trái, đậu nhiều trái
và chống chịu khá với bệnh thối trái, sinh trưởng tốt quanh năm.
- Giống
Hiểm lai 207 (công ty Hai Mũi Tên Đỏ phân phối): Giống cho trái chỉ thiên, dài 2
- 3 cm, trái rất cay và thơm, năng suất 2 - 3 kg trái/cây, chống chịu khá bệnh
thán thư.
2. Giống địa phương- Giống Sừng Trâu: Bắt
đầu cho thu hoạch 60 - 80 ngày sau khi cấy. Trái màu đỏ khi chín, dài 12 - 15
cm, hơi cong ở đầu, hướng xuống. Năng suất 8 - 10 tấn/ha, dễ nhiễm bệnh virus và
thán thư trên trái.
- Giống Chỉ Thiên: Bắt đầu cho trái 85 - 90 ngày sau
khi cấy. Trái thẳng, bóng láng, dài 7 - 10 cm, hướng lên, năng suất tương đương
với ớt Sừng nhưng trái cay hơn nên được ưa chuộng hơn.
- Giống Ớt Hiểm:
Cây cao, trổ hoa và cho trái chậm hơn 2 giống trên nhưng cho thu hoạch dài ngày
hơn nhờ chống chịu bệnh tốt. Trái nhỏ 3 - 4 cm nên thu hoạch tốn công, trái rất
cay và kháng bệnh đén trái tốt nên trồng được trong mùa mưa.
IV.
Kỹ thuật trồng1. Thời vụỞ đồng bằng sông Cửu
Long ớt có thể trồng quanh năm, tuy nhiên trong sản xuất thường canh tác ớt vào
các thời vụ sau:
- Vụ sớm: Gieo tháng 8 - 9, trồng tháng 9 - 10, bắt đầu thu
hoạch tháng 12 - 1 duơng lịch (dl) và kéo dài đến tháng 4 - 5 năm sau. Vụ này ớt
trồng trên đất bờ líp cao không ngập nước vào mùa mưa. Ớt trồng mùa mưa đỡ công
tưới, thu hoạch trong mùa khô dễ bảo quản, chế biến và thời gian thu hoạch dài,
tuy nhiên diện tích canh tác vụ này không nhiều.
- Vụ chính (Đông Xuân):
Gieo tháng 10 - 11, trồng tháng 11 - 12, bắt đầu thu hoạch tháng 2 - 3 dl. Trong
vụ này cây sinh trưởng tốt, năng suất cao, ít sâu bệnh.
- Vụ Hè Thu: Gieo
tháng 4 - 5 trồng tháng 5 - 6 thu hoạch 8 - 9 dl. Mùa này cần trồng trên đất
thoát nước tốt để tránh úng ngập và chọn giống kháng bệnh thán
thư.
2. Chuẩn bị cây conLượng hạt giống gieo đủ cấy
cho 1.000m2 từ 15 - 25 gram (150 - 160 hột/g). Diện tích gieo ương cây con là
250 m2. Chọn đất cao ráo hay làm giàn cách mặt đất 0,5 - 1 m, lót phên tre hay
lá chuối rồi đổ lên trên một lớp đất, phân, tro dày 5 - 10 cm rồi gieo hạt. Cách
này dễ chăm sóc cây con và ngăn ngừa côn trùng hoặc gia súc phá hại. Cũng có thể
gieo hạt thẳng vào bầu hay gieo theo hàng trên líp ương. Hạt ớt thường nẩy mầm
chậm, 8 - 10 ngày sau khi gieo mới mọc khỏi đất, cây con cấy vào lúc 30 - 35
ngày tuổi, có sử dụng màng phủ cây con nên cấy sớm lúc 20 ngày
tuổi.
3. Cách trồngĐất trồng ớt phải được luân canh
triệt để với cà chua, thuốc lá và cà tím. Trồng mùa mưa cần lên líp cao vì ớt
chịu úng kém. Khoảng cách trồng thay đổi tùy thời gian dự định thu hoạch trái,
nếu ăn trái nhanh (4 - 5 tháng sau khi trồng) nên trồng dày, khoảng cách trồng
50 x (30 - 40) cm, mật độ 3.500 - 5.000 cây/1.000m2; nếu muốn thu hoạch lâu nên
trồng thưa, 70 x (50 - 60) cm, mật độ 2.000 - 2.500
cây/1.000m2.
4. Sử dụng màng phủ nông nghiệp (bạt plastic)
4.1
Mục đícha. Hạn chế côn trùng và bệnh hại: Mặt màu bạc của màng phủ
phản chiếu ánh sáng mặt trời nên giảm bù lạch, rầy mềm, giảm bệnh do nấm tấn
công ở gốc thân và đốm trên lá chân
b. Ngăn ngừa cỏ dại: Mặt đen của màng
phủ ngăn cản ánh sáng mặt trời, làm hạt cỏ bị chết trong màng phủ.
c.
Điều hoà độ ẩm và giữ cấu trúc mặt đất: Màng phủ ngăn cản sự bốc hơi nước trong
mùa nắng, hạn chế lượng nước mưa nên rễ cây không bị úng nước, giữ độ ẩm ổn định
và mặt đất tơi xốp, thúc đẩy rễ phát triển, tăng sản lượng.
d. Giữ phân
bón: Giảm rửa trôi của phân bón khi tưới nước hoặc mưa to, ít bay hơi nên tiết
kiệm phân.
e. Tăng nhiệt độ đất: Giữ ấm mặt đất vào ban đêm (mùa lạnh)
hoặc thời điểm mưa dầm thiếu nắng mặt đất bị lạnh.
f. Hạn chế độ phèn,
mặn: Màng phủ làm giảm sự bốc hơi qua mặt đất nên phèn, mặn được giữ ở tầng đất
sâu, giúp bộ rễ hoạt động tốt hơn.
4.2 Cách sử dụng màng phủ nông
nghiệp- Vật liệu và qui cách: Dùng 2 cuồn màng phủ khổ rộng 0.9-1m
trồng ớt hàng đơn, còn hàng đôi 1,5 cuồn màng khổ 1,2 - 1,4 m, diện tích vải phủ
càng rộng thì hiệu quả phòng trừ sâu bệnh càng cao. Chiều dài mỗi cuồn màng phủ
là 400 m, khi phủ liếp mặt xám bạc hướng lên, màu đen hướng xuống.
- Lên
liếp: Lên liếp cao 20 - 40 cm tùy mùa vụ, mặt liếp phải làm bằng phẳng không
được lồi lõm vì rễ khó phát triển và màng phủ mau hư, ở giữa liếp hơi cao hai
bên thấp để tiện việc tưới nước.
- Rãi phân lót: Liều lượng cụ thể hướng
dẫn bên dưới, nên bón lót lượng phân nhiều hơn trồng phủ rơm vì màng phủ hạn chế
mất phân và không bị cỏ dại canh tranh. Có thể giảm bớt 20% lượng phân so với
không dùng màng phủ.
- Xử lý mầm bệnh: Phun thuốc trừ nấm bệnh như Oxyt
đồng hoặc Copper B (20 g/10 lít) hoặc Validacin (20 cc/10lít) đều trên mặt liếp
trước khi đậy màng phủ.
- Đậy màng phủ: Mùa khô nên tưới nước ngay hàng
trồng cây trước khi đậy màng phủ. Khi phủ kéo căng vải bạt, hai bên mép ngoài
được cố định bằng cách dùng dây chì bẻ hình chữ U mỗi cạnh khoảng 10 cm ghim sâu
xuống đất (dây chì sử dụng được nhiều năm) hoặc dùng tre chẻ lạc ghim mé
liếp.
5. Bón phân: (tương tự cà chua)Tùy theo loại
đất, mức phân bón trung bình toàn vụ cho 1.000m2 như sau:
20 kg Urea + 50 kg
Super lân + 20 kg Clorua kali + 12 kg Calcium nitrat + (50 - 70) kg 16 - 16 - 8
+ 1 tấn chuồng hoai + 100 kg vôi bột, tương đương với lượng phân nguyên chất
(185 - 210N)-(150 - 180P2O5)-(160 - 180K2O) kg/ha.
* Bón lót: 50 kg super
lân, 3 kg Clorua kali, 2 kg Calcium nitrat, 10 - 15 kg 16 - 16 - 8, 1 tấn phân
chuồng và 100 kg vôi. Vôi rải đều trên mặt đất trước khi cuốc đất lên liếp, phân
chuồng hoai, lân rãi trên toàn bộ mặt liếp xới trộn đều. Nên bón lót lượng phân
nhiều hơn trồng phủ rơm vì phân nằm trong màng phủ ít bị bốc hơi do ánh nắng,
hay rửa trôi do mưa.
* Bón phân thúc:
- Lần 1: 20 - 25 ngày sau khi
cấy (giống thấp cây) và 20 ngày sau khi cấy (giống cao cây). Lượng bón: 4 kg
Urê, 3 kg Clorua kali, 10 kg 16 - 16 - 8 + 2 kg Calcium nitrat. Bón phân bằng
cách vén màng phủ lên rãi phân một bên hàng cà hoặc đục lổ màng phủ giữa 2 gốc
cà.
- Lần 2: 55-60 ngày sau khi cấy, khi đã đậu trái đều.
Lượng bón: 6
kg Urê, 5 kg Clorua kali, 10-15 kg 16-16-8 + 2 kg Calcium nitrat. Vén màng phủ
lên rãi phân phía còn lại cà hoặc bỏ phân vào lổ giữa 2 gốc cà.
- Lần 3:
Khi cây 80-85 ngày sau khi cấy, bắt đầu thu trái.
Lượng bón: 6 kg Urê, 5 kg
Clorua kali, 10-15 kg 16-16-8 + 3 kg Calcium nitrat. Vén màng phủ lên rãi phân
phía còn lại hoặc bỏ phân vào lổ giữa 2 gốc cà.
- Lần 4: Khi cây 100 -
110 ngày sau khi cấy, thúc thu hoạch rộ (đối với ớt sừng dài ngày).
Lượng
bón: 4 kg Urê, 4 kg Clorua kali, 10 - 15 kg 16 - 16 - 8 + 3 kg Calcium nitrat.
Vén màng phủ lên rãi phân hoặc bỏ phân vào lổ giữa 2 gốc cà.
- Chú
ý:
+ Ớt thường bị thối đuôi trái do thiếu canxi, do đó mặc dù đất được bón
vôi đầy đủ trước khi trồng hoặc bón đủ Calcium nitrat nhưng cũng nên chú ý phun
bổ sung phân Clorua canxi (CaCl2) định kỳ 7 - 10 ngày/lần vào lúc trái đang phát
triển để ngừa bệnh thối đuôi trái..
+ Nếu không dùng màng phủ, nên chia nhỏ
lượng phân hơn và bón nhiều lần để hạn chế mất phân.
+ Nhằm góp phần tăng
năng suất và phẩm chất trái, nhất là trong mùa mưa có thể dùng phân bón lá vi
lượng như MasterGrow, Risopla II và IV, Miracle,... Bayfolan, Miracle... phun
định kỳ 7 - 10 ngày/lần từ khi cấy đến 10 ngày trước khi thu
hoạch.
6. Chăm sóc
6.1 Tưới nướcỚt cần nhiều nước
nhất lúc ra hoa rộ và phát triển trái mạnh. Giai đoạn này thiếu nước hoặc quá ẩm
đều dẫn đến đậu trái ít. Nếu khô hạn kéo dài thì tưới rảnh (tưới thấm) là phương
pháp tốt nhất, khoảng 3 - 5 ngày tưới/lần. Tưới thấm vào rãnh tiết kiệm nước,
không văng đất lên lá, giữ ẩm lâu, tăng hiệu quả sử dụng phân bón. Mùa mưa cần
chú ý thoát nước tốt, không để nước ứ đọng lâu.
6.2 Tỉa
nhánhThông thường các cành nhánh dưới điểm phân cành đều được tỉa
bỏ cho gốc thông thoáng. Các lá dưới cũng tỉa bỏ để ớt phân tán
rộng
6.3 Làm giànGiàn giữ cho cây đứng vững, để cành
lá và trái không chạm đất, hạn chế thiệt hại do sâu đục trái và bệnh thối trái
làm thiệt hại năng suất, giúp kéo dài thời gian thu trái. Giàn được làm bằng
cách cắm trụ cứng xung quanh hàng ớt dùng dây chì giăng xung quanh và giăng lưới
bên trong hoặc cột dây nilong lúc cây chuẩn bị trổ hoa.
V. Thu
hoạch và để giống- Thu hoạch ớt khi trái bắt đầu chuyển màu. Ngắt
nhẹ nhàng cả cuống trái mà không làm gãy nhánh. Ơt cay cho thu hoạch 35 - 40
ngày sau khi trổ hoa, ở các lứa rộ thu hoạch ớt mỗi ngày, bình thường cách 1 - 2
ngày thu 1 lần, nếu chăm sóc tốt năng suất trái đạt 20 - 30 tấn/ha.
- Làm
giống nên chọn cây tốt, cách ly để tránh lai tạp làm giảm giá trị giống sau này.
Chọn trái ở lứa thu hoạch rộ, để chín chín hoàn toàn trên cây, hái về để chín
thêm vài ngày rồi mổ lấy hạt, phơi thật khô, để vào chai lọ kín và để nơi khô
ráo. Hạt ớt chứa nhiều chất béo, do đó hạt khô thường hút nước lại và gia tăng
ẩm độ, vì vậy trữ hạt ở điếu kiện nóng ẩm (ẩm độ trữ hơn 70% và nhiệt độ 20 độ
C) hạt mất khả năng nẩy mầm 50% trong thời gian 3 tháng và mất khả năng nẩy mầm
hoàn toàn trong thời gian 6 tháng. Trữ hạt trong điều kiện khô, kín (ẩm độ 20%,
nhiệt độ là 25 độ C), hạt khô (ẩm độ 5%) có thể giữ độ nẩy mầm 80% trong 5
năm.
- Đồng bằng sông Cửu Long có nhiều thuận lợi cho việc canh tác ớt và
khả năng xuất khẩu ớt thu ngoại tệ cũng không nhỏ. Tuy nhiên để thực hiện được
điều đó cần chú ý những điểm như sau:
- Các giống ớt địa phương hiện
trồng có năng suất còn thấp và tỷ lệ ớt tươi/khô cũng thấp.
- Ớt xuất
khẩu thường ở dạng khô. Phương pháp làm ớt khô bắng cách phơi ớt tươi trực tiếp
ngoài nắng thường làm ớt mất màu, không phù hợp với tiêu chuẩn xuất khẩu. Ngoài
ra việc phơi nắng kéo dài trong 10 - 20 ngày tạo điều kiện cho bệnh đén trái
tiếp tục phát triển trong thời gian phơi và làm mất phẩm chất ớt.
Ớt xuất
khẩu và dùng trong chế biến thực phẩm còn đòi hỏi các tiêu chuẩn như độ cay, mùi
hương mà các giống trồng hiện chưa đáp ứng được. Do đó cần chú ý công tác chọn
tạo giống và kỹ thuật chế biến ớt, bảo đảm tiêu chuẩn xuất khẩu thì cây ớt mới
có giá trị kinh tế cao.
Kỹ thuật trồng Ớt, Nguồn: Khoa Nông nghiệp -
Đại học Cần Thơ